Trận Biên Giới (Chống Pháp).

Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950 còn gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong 2, là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do Quân đội nhân dân Việt Nam (được phía Pháp gọi là Việt Minh) thực hiện từ ngày 16 tháng 9 đến 14 tháng 10 năm 1950, nhằm phá vòng vây mà quân viễn chinh của Đệ tứ Cộng hòa Pháp bố trí nhằm cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, từ đó khai thông biên giới Việt - Trung để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ của Liên Bang Xô Viết thông qua Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Mặt khác, Việt Minh sẽ mở rộng căn cứ địa, làm tiêu hao sinh lực quân đồn trú Pháp, và thử nghiệm các chiến thuật của Quân đội Nhân dân Việt Nam cho các trận đánh lớn sau này.

Bối Cảnh.

Đến năm 1949, lực lượng viễn chinh Pháp vẫn chưa chiếm được khu vực Việt Bắc; việc kiểm soát đồng bằng Bắc Bộ diễn ra chậm và thiếu ổn định. Trong khi đó, Việt Minh đã tổ chức lại bộ máy và lực lượng, bắt đầu mở những trận đánh quy mô lớn để chống lại quân Pháp. Ngoài các lực lượng địa phương, Việt Minh đã tập hợp được hai Đại đoàn 308 và Đại đoàn 304, hai trung đoàn 174 và trung đoàn 209 để làm lực lượng cơ động. Trong 5 năm bị cô lập, Việt Minh tích cực mở rộng quan hệ ngoại giao nhằm tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập; họ nhanh chóng công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó ngày 18 tháng 1 năm 1950, Liên Xô và các nước Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Uy tín và tiềm lực quân sự của Mặt trận Việt Minh ngày càng tăng ảnh hưởng trong dân chúng. Ngoài ra, Việt Minh cũng thông qua các tổ chức Việt kiều tại Pháp và các tổ chức cánh tả để đấu tranh chính trị, tác động mạnh đến phong trào phản đối cuộc chiến tranh Đông Dương lúc này đang cao trào. Nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị chưa từng có. Nhà nước Quốc gia Việt Nam thiếu uy tín trong nhân dân do bị coi là chính phủ bù nhìn; quân đội của họ không đủ năng lực để có thể phối hợp tốt với lực lượng viễn chinh Pháp tại Đông Dương để chiến thắng cuộc chiến. Vì vậy, chính phủ Pháp tính đến phương án chấp nhận các khoản viện trợ quân sự và kinh tế từ chính phủ Hoa Kỳ để tiếp tục cuộc chiến.

Mục Tiêu và Chiến Dịch.

rước tình hình chiến trường Đông Dương, ngoài việc tăng viện 20 tiểu đoàn lê dương Âu – Phi, quân Pháp còn thực hiện chiến lược Da vàng hóa chiến tranh, tổ chức thêm 35 tiểu đoàn quân đội bản xứ (Quân đội Quốc gia Việt Nam). Nước Mỹ bắt đầu nhảy vào cuộc với viện trợ quân sự cho Pháp và Quốc gia Việt Nam. Tháng 5/1949, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp là tướng Georges Marie Joseph Revers được phái sang Đông Dương nghiên cứu tình hình để vạch ra kế hoạch mới. Theo đó, người Pháp sẽ tăng viện tại Bắc Bộ để củng cố, mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở đồng bằng và trung du; giành lấy các nguồn cung ứng quan trọng; tăng cường phòng thủ tứ giác Lạng Sơn – Tiên Yên – Hải Phòng – Hà Nội và phong tỏa biên giới; phát triển quân đội người bản xứ và quân Âu-Phi làm lực lượng cơ động. Theo kế hoạch của tướng Revers, quân đội Pháp ở Đông Dương thực hiện chủ trương xem Bắc Bộ là chiến trường chính; chiếm đóng đồng bằng, củng cố biên giới; đồng thời ra sức tǎng viện, tổ chức quân đội quốc gia bản xứ để làm giảm ảnh hưởng và thu hẹp khả năng kiểm soát của lực lượng Việt Minh; tǎng cường lực lượng trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ; tổ chức một hệ thống phòng ngự mới dựa vào những cứ điểm lớn và những binh đoàn ứng chiến (colonne) lớn; và tǎng cường phi cơ và trọng pháo để chống lại các cuộc tấn công của quân Việt Minh. Trong lúc đó, mở những cuộc càn quét liên tiếp vào vùng địch hậu, nhất là ở Nam Bộ để củng cố hậu phương. Để lấy lại thế chủ động, Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự đường thuộc địa số 4, khoá biên giới Việt- Trung nhằm cô lập căn cứ địa Việt Bắc với bên ngoài, thiết lập hành lang Đông- Tây với mục đích cô lập Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ, chuẩn bị lực lượng tấn công Việt Bắc lần 2 để tiêu diệt đầu não Việt Minh, lập ra hệ thống Liên khu Biên thùy. Lực lượng Pháp chủ trương tiếp tục kiểm soát toàn tuyến từ Cao Bằng đến Móng Cái (suốt tuyến đường số 4). Khi tình hình chuyển biến xấu, quân Pháp ở Đông Dương rút bớt một số đơn vị nhỏ lẻ nhưng vẫn giữ vững các thị xã, thị trấn chiến lược như Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng và dọc tuyến Lạng Sơn - Tiên Yên - Móng Cái. Về phía Việt Minh, tích cực thực hành hình thức chiến tranh '''Đại đội độc lập - Tiểu đoàn tập trung''' và trong tháng 2 năm 1950 đã đề ra chủ trương: Gấp rút hoàn thành việc chuẩn bị, giành thắng lợi lớn, làm chuyển biến chiến tranh có lợi, tiêu diệt cho được một phần quan trọng lực lượng địch, thu hẹp vùng kiểm soát của đối phương, tích cực ngăn ngừa và phá những cuộc càn quét, tiến tới giành chủ động về chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Bộ chỉ huy Việt Minh đã nhận định đúng ý đồ của Pháp, nhanh chóng vạch kế hoạch chủ động tấn công để khai thông con đường liên lạc quốc tế để nhận viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Việt Minh có thể tiêu diệt một bộ phận sinh lực đối phương, mở rộng ảnh hưởng và củng cố địa bàn căn cứ địa Việt Bắc, tạo điều kiện đẩy mạnh công cuộc kháng chiến. Để thực hiện chủ trương này, Việt Minh mở chiến dịch Lê Hồng Phong 1 với trọng điểm là khu vực Lào Cai – Bắc Hà nhưng kết quả rất hạn chế. Đầu tháng 7/1950, Bộ Tổng tư lệnh Việt Minh quyết định chuyển hướng chiến dịch sang Cao Bằng – Lạng Sơn.

Lực Lượng 2 Bên.

Pháp

Trên con đường dài 116 km xuyên qua rừng rậm núi cao từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, Pháp đặt hệ thống đồn bốt ở các thị trấn Lạng Sơn, Đồng Đăng, Na Chàm, Thất Khê, Đông Khê, và Cao Bằng, cùng nhiều đồn nhỏ nằm rải rác chung quanh. Về lực lượng, quân Pháp ở Cao Bằng có 3 tiểu đoàn vừa lê dương Maroc và nhiều lính phụ lực bản xứ do đại tá Charton phụ trách, trực thuộc bộ chỉ huy vùng đặt tại Lạng Sơn do đại tá Constans chỉ huy. Ở Lạng Sơn có 5 tiểu đoàn lính Pháp, thiết giáp, trọng pháo và nhiều lính phụ lực bản xứ. Ở Đông Khê (cách Cao Bằng 30 km về phía đông nam), có 2 đại đội lê dương dưới quyền của hai đại uý Vollaire và Alliou. Ở Thất Khê (cách Đông Khê khoảng 20 km), có một đại đội khác trấn giữ. Ở Na Chàm, có một đại đội do đại úy Mattéi và trung úy Aluzot chỉ huy. Tổng cộng quân Pháp có 10 tiểu đoàn Âu Phi, 1 tiểu đoàn và 9 đại đội lính Việt; 27 khẩu pháo các loại gồm: 2 khẩu 155mm, 15 khẩu 105mm, 1 khẩu 94mm, 5 khẩu 75mm, 4 khẩu 57mm; 4 đại đội công binh; 4 đại đội cơ giới; 6 máy bay chiến đấu và 2 máy bay trinh sát liên lạc. Các tiểu đoàn lê dương là các đội quân tinh nhuệ, có khả năng đánh phòng ngự tốt. Các tiểu đoàn Tabor lính Maroc có khả năng đánh rừng núi. Lực lượng lính bản xứ Thổ - Nùng cũng được đánh giá là xông xáo và thông thạo chiến trường. Lực lượng cơ động của Pháp ở biên giới thuộc GTM (Binh đoàn Maroc – Groupement tirailleur Marocain) và do Trung tá Le Page chỉ huy. Tính trên toàn chiến trường Bắc Bộ là 9 tiểu đoàn cơ động/12 tiểu đoàn cơ động Đông Dương/124 tiểu đoàn của quân đội Liên hiệp Pháp. Trên thực tế, Pháp đã điều thêm 2 tiểu đoàn cơ động lên Biên giới là 1 BEP (Tiểu đoàn dù lê dương số 1) và 3 BCCP. Hệ thống đồn bốt của Pháp rất vững chắc, các vị trí đều có lô cốt bê tông cốt sắt kiên cố. Các vị trí này là những mục tiêu khó khăn đối với trang bị của Việt Minh thời bấy giờ. Tuy nhiên, hệ thống này cũng có những điểm yếu. Đó là bố trí thành tuyến độc đạo kéo dài, một số vị trí dễ thành đột xuất, cô lập và hở sườn dễ bị chia cắt; hậu cần, tiếp tế, tải thương đều khó khăn và gần như phụ thuộc hoàn toàn vào không quân; khả năng sử dụng vũ khí khí tài công nghệ cao như xe tăng, máy bay bị hạn chế.

Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

+ Đại đoàn 308 gồm 3 trung đoàn bộ binh: 36, 88, 102 và tiểu đoàn 11.

+ 2 trung đoàn chủ lực: 174 và 209.

+ 3 tiểu đoàn độc lập: 426, 428 của Liên khu Việt Bắc; tiểu đoàn 888 của tỉnh Lạng Sơn.

+ Pháo binh: gồm 4 đại đội sơn pháo, gồm 20 khẩu pháo 70mm và 75mm.

+ Công binh: 5 đại đội.

- Quân số các đơn vị là 25.000 người. Bộ chỉ huy chiến dịch và cơ quan: 4.500 người. Tổng cộng: 29.500 người. Ngoài ra còn có một số đại đội bộ đội địa phương và du kích của hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Lãnh đạo chiến dịch là Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, gồm:

+ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy trưởng kiêm chính ủy mặt trận.

+ Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng: Tham mưu trưởng chiến dịch.

+ Đại tá Phan Phác, Quyền Tổng tham mưu phó: Tham mưu phó chiến dịch.

+ Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị: Chủ nhiệm Phòng Chính trị chiến dịch.

+ Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Phòng Chính trị chiến dịch.

+ Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp: Chủ nhiệm Phòng Cung cấp chiến dịch.

+ Bùi Quang Tạo, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc: Phó Chủ nhiệm Phòng Cung cấp chiến dịch.

Ngoài việc biên chế đã bước đầu thống nhất, các đơn vị chủ lực Quân đội Nhân dân Việt Nam (Đại đoàn 308, trung đoàn 174 và 209, trung đoàn pháo binh 675) được huấn luyện quân sự ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1950; họ có nhiều tiến bộ trong các kỹ thuật chiến đấu như kỹ thuật đánh bộc phá, đánh công kiên,... Song song với huấn luyện quân sự, bộ đội đã qua các lớp giáo dục chính trị. Một số mặt hạn chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam là cách thức du kích vẫn chiếm ưu thế; thiếu kinh nghiệm chiến đấu quy mô lớn với yêu cầu hiệp đồng chặt chẽ; tổ chức và biên chế cồng kềnh; trình độ tổ chức của chỉ huy chưa đáp ứng được yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam đối diện với bài toán hậu cần quy mô lớn nên tiến hành rất khó khăn. Kết quả thực tế hậu cần chiến dịch đã tiếp tế cho bộ đội 1.886 tấn lương thực thực phẩm, 41 tấn đạn, cứu chữa hơn 1.550 thương binh, huy động 121.700 lượt người đi dân công, phục vụ 1.716.000 ngày công. Do tầm quan trọng của chiến dịch, Hồ Chí Minh cũng trực tiếp tham gia công tác chỉ đạo và tham mưu. Khi chia tay với Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên đường đi chiến dịch, chủ tịch Hồ Chí Minh dặn: "Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!"[2] Ngày 2/9/1950, sau khi họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường ra mặt trận, đoàn hộ tống đi chiến dịch mang mật danh “Thắng Lợi”. Đây là lần đầu đoàn hộ tống đi theo có tới sáu người. Trên đường đi, ghé thăm một đơn vị thanh niên xung phong làm đường phục vụ chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thanh niên bốn câu thơ, về sau trở thành khẩu hiệu của Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam:

“Không có việc gì khó,

Chỉ sợ lòng không bền,

Đào núi và lấp biển,

Quyết chí ắt làm nên”

Ngày 9/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra "Lời kêu gọi đồng bào Cao - Bắc - Lạng", cảm tạ đồng bào ba tỉnh đã đóng góp rất nhiều cho chiến dịch, như góp quân lương, sửa đường sá, vận tải, chuyên chở, giúp đỡ bộ đội và kêu gọi “Toàn thể đồng bào ba tỉnh, các ủy ban kháng chiến và hành chính, các đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa, tiếp tục giúp đỡ cho bộ đội ta trước mặt trận để quân ta giết nhiều địch, đánh thắng to”. Ngày 10/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Sở chỉ huy chiến dịch ở làng Tả Phày Tử thuộc huyện Quảng Yên, phía bắc thị xã Cao Bằng. Ngày 13/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sở chỉ huy chiến dịch để đến mặt trận Đông Khê để trực tiếp theo dõi đánh trận mở màn, và chỉ thị cho bộ đội: “Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu”. Đến thăm Trung đoàn 296 đang đóng gần Đông khê, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ “phải đánh thắng trận mở màn của chiến dịch Biên giới”. Tại đây, Hồ Chí Minh đã làm bài thơ:

“Chống gậy lên non xem trận địa

Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây

Quân ta khí mạnh nuốt ngưu đẩu

Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”

Diễn Biến.

Tìm Hiểu Diễn Biến Tiếp

Facebook: Click